Khái niệm, quy định pháp luật về ngân hàng thương mại?

Khái niệm, quy định pháp luật về ngân hàng thương mại?
Thuật ngữ ngân hàng thương mại không còn xa lạ đối với người dân nữa. Nhưng cụ thể khái niệm ngân hàng thương mại là gì?
Khái niệm Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận tiền gửi của khách hàng với các hình thức khác nhau. Nghiệp vụ kinh doanh của Ngân hàng thương mại rất phong phú và đa dạng cùng với sự phát triển của khách hàng, khoa học kỹ thuật kinh tế và xã hội, hoạt động của Ngân hàng thương mại cũng có nhiều phương pháp mới, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản không thay đổi là nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, đầu tư. Qua Ngân hàng thương mại các chính sách tài chính tiền tệ của Quốc gia sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và cũng nhờ nó mà việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng luật pháp được dễ dàng hơn. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cũng là các doanh nghiệp nhưng chúng là những doanh nghiệp đặc biệt vì tài sản trong quá trình kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều phụ thuộc vào các khách hàng.

Mặt khác, hàng hóa mà các Ngân hàng kinh doanh là một loại hàng hóa đặc biệt, nó rất nhậy cảm với sự biến đổi của thị trường và tình hình kinh tế xã hội.

Có thể phân chia Ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tùy theo yêu cầu của người quản lý.

Phân loại Ngân hàng thương mại theo hình thức sở hữu

Ngân hàng sở hữu tư nhân

Là Ngân hàng do cá thể thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại Ngân hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động thường là trong từng địa phương và thường gắn liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương.

Ngân hàng sở hữu của các cổ đông ( Ngân hàng cổ phần)

Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành ( bán) các cổ phiếu, việc nắm giữ các cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của Ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của Ngân hàng đồng thời phải chịu tổn thất có thể xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành thông qua tập trung, các Ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh chóng vì vậy thường là các Ngân hàng lớn và có phạm vi hoạt động rộng, đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con.

Ngân hàng sở hữu nhà nước

Đây là loại hình Ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp, có thể là nhà nước Trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Các Ngân hàng này được thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định, thường là do chính sách của chính quyền Trung ương hoặc địa phương quy định. ở các nước đi theo con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thường quốc hữu hóa các Ngân hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng nên các Ngân hàng. Những Ngân hàng này thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các Ngân hàng này phải thực hiện các chính sách của Nhà nước có thể bất lợi trong hoạt động kinh doanh .

Ngân hàng liên doanh

Ngân hàng này được hình thành trên góp vốn của hai hay nhiều bên, thường là giữa Ngân hàng trong nước với Ngân hàng nước ngoài để tận dụng lợi thế của nhau.

Phân loại ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động

Ngân hàng chuyên doanh và đa năng

Ngân hàng hoạt động theo chuyên doanh: loại Ngân hàng này chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng, như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với Nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay ( không bảo lãnh hoặc cho thuê). Tính chuyên môn hóa cao cho phép Ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ, tuy vậy loại Ngân hàng này thường gặp rủi ro rất lớn khi ngành hoặc lĩnh vực hoạt động mà Ngân hàng phục vụ sa sút. Ngân hàng đơn năng có thể là Ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những Ngân hàng sở hữu của công ty.

Ngân hàng đa năng: Là Ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ Ngân hàng cho mọi đối tượng, đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại, Ngân hàng đa năng thường là Ngân hàng lớn. Tính đa dạng sẽ làm Ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.

Ngân hàng bán buôn và Ngân hàng bán lẻ

Ngân hàng bán buôn là Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các Ngân hàng, các công ty tài chính, cho Nhà nước, cho doanh nghiệp lớn… Ngân hàng bán buôn thường là những Ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các tài khoản tín dụng lớn.

Ngân hàng bán lẻ thường cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân các khoản tín dụng nhỏ.

Phân loại Ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức

Ngân hàng sở hữu công ty và Ngân hàng không sở hữu công ty. Ngân hàng sở hữu công ty: là Ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của công ty, cho phép Ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. Các Ngân hàng không sở hữu công ty: có thể do vốn nhỏ, hoặc quy định của luật không cho phép…

Ngân hàng đơn nhất được hiểu là Ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ Ngân hàng chỉ do một cơ sở Ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh thường là Ngân hàng tương đối lớn, cung cấp dịch vụ Ngân hàng thông qua nhiều đơn vị Ngân hàng, việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi NHNN thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của các dịch vụ Ngân hàng trong vùng.

Trên đây là bài viết về ngân hàng thương mại Lawkey gửi tới bạn đọc, nếu có bất kỳ thắc mắc gì vui lòng liên hệ tới Lawkey để được giải đáp chi tiết nhất.